Ngành Khí tượng Việt Nam đã trải qua hơn 100 năm hoạt động và phát triển với nhiều cống hiến quan trọng cho đất nước cũng như nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng rất lớn của thiên tai có nguồn gốc KTTV, nhưng không thể phủ nhận một thế kỷ qua với sự nỗ lực không mệt mỏi của các nhà khoa học, nhà quản lý, những hiện tượng thời tiết, đặc biệt là thời tiết cực đoan đã được dự báo, cảnh báo tương đối kịp thời. Đặc biệt, với Việt Nam, một quốc gia mà ngành nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo, nhu cầu về thông tin thời tiết, về sự thay đổi mùa rất cần thiết thì vai trò của ngành KTTV lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua hơn 100 năm ngành KTTV đã có bước phát triển vượt bậc. Trước đây, năm 1990 có Pháp lệnh về bảo vệ công trình khí tượng thủy văn, Từ 2015 đến nay có Luật về KTTV. Đây là bước tiến rất lớn, tạo ra hành lang pháp lý cho ngành KTTV phát triển, Luật KTTV và các văn bản dưới Luật đã từng bước điều chỉnh toàn diện hoạt động KTTV trên lãnh thổ Việt Nam. Trong lĩnh vực KTTV mạng lưới quan trắc cũng có sự thay đổi đáng kể. Từ những năm mới giành độc lập, chúng ta có hơn 20 trạm KTTV thô sơ, đến năm 1964 ta có gần 80 trạm quan trắc. Nhưng đến nay chúng ta có khoảng trên 600 trạm quan trắc về KT,TV, hải văn kể cả trạm radar, thám không vô tuyến và khoảng gần 1.000 trạm đo mưa (trong đó có gần 40% là các trạm đo mưa tự động thay thế bằng các trạm đo mưa nhân dân thủ công). Các trạm này đã được đầu tư nhưng so với tỷ lệ, mật độ của thế giới cần có sự nỗ lực. Với số lượng trạm chưa nhiều nhưng các trạm này đã phần nào thực hiện tốt nhiệm vụ dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV.
Từ những thành tựu của công nghệ internet, số hóa thời kỳ 4.0 ngành KTTV đã có mạng lưới thông tin dữ liệu tương đối bài bản với hệ thống máy tính hiệu năng cao, siêu máy tính mini,...
Thời kỳ trước năm 2000 thời hạn dự báo bão mới chỉ đạt từ 18 đến 24h. Từ năm 2000 trở về đây với sự phát triển công nghệ dự báo KTTV được thực hiện theo hướng mô hình hóa, tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực dự báo thời tiết, dự báo thủy văn và dự báo hải văn. Hệ thống mô hình dự báo hiện đại của thế giới như của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu,… được cải tiến, phát triển cho phù hợp với Việt Nam trong dự báo bão, dự báo mưa lớn, dự báo lũ, cảnh báo lũ quét, dự báo song biển, nước dâng do bão hay gió mùa.
Nhờ các công nghệ dự báo này, dự báo bão ở Việt Nam đã được nâng thời hạn dự báo lên 5 ngày mà vẫn đảm bảo độ tin cậy như các nước tiên tiến. Đã triển khai dự báo thời tiết điểm chi tiết cho khoảng 600 điểm trên toàn quốc. Dự báo không khí lạnh, nắng nóng, khô hạn đạt yêu cầu của xã hội. Dự báo, cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 24-48 giờ, khu vực Bắc Bộ trước 3-5 ngày đạt độ tin cậy. Tuy nhiên cảnh bão lũ quét, sạt lở đất, dông sét vẫn có nhiều hạn chế do tính chất nhanh, bất ngờ của các hiện tượng này.
Từ năm 2020, các sản phẩm dự báo phân giải cao được kết hợp với các dữ liệu ước lượng mưa phân tích chi tiết trên lưới tính 1km x 1km từ quan trắc mưa tự động, sản phẩm ước lượng mưa từ hệ thống radar đồng bộ-hiện đại và sản phẩm mưa ước lượng từ quan trắc vệ tinh và các sản phẩm dự báo mưa hạn cực ngắn ngoại suy từ số liệu radar (hạn 1-3 giờ) để tạo ra được sản phẩm bản đồ mưa chi tiết định lượng cho các bài toán cảnh báo lũ quét và sạt lở đất.
Ngoài ra, Tổng cục KTTV đã triển khai công nghệ dự báo tổ hợp cho phép đưa ra được khoảng biến động của dự báo từ mô hình số dựa trên việc xây dựng và triển khai áp dụng hệ thống dự báo tổ hợp từ hạn ngắn, hạn vừa đến hạn mùa, gồm các hệ thống dự báo tổ hợp thời tiết hạn ngắn phân giải cao (SREPS) có 32 dự báo thành phần với độ phân giải 9 km và hệ thống dự báo tổ hợp thời tiết hạn vừa từ 5-10 ngày của Châu Âu gồm 51 dự báo thành phần với độ phân giải 16 km.
Nhờ ứng dụng các công nghệ mới, việc dự báo KTTV hiện nay đã chuyển sang phương thức dự báo tác động của các loại hình thiên tai dần thay thế cho các dự báo hiện tượng, mang lại hiệu quả cao hơn trong phòng chống thiên tai cũng như phát triển kinh tế xã hội.
Tạp chí KTTV