Mục tiêu đến năm 2025, tất cả lưu vực sông lớn quan trọng có quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh. Tỷ lệ dùng nước sạch trong sinh hoạt sẽ nâng lên là 95-100% với dân cư đô thị, 65% với dân số nông thôn và giảm tỷ lệ thất thoát nước xuống 10%.
Tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam sẽ nâng chỉ số an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh nguồn nước hiệu quả trên thế giới.
Khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết, Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 là căn cứ, định hướng để Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành, địa phương liên quan tiếp tục tổ chức xây dựng các quy hoạch ngành, quy hoạch mang tính chất kỹ thuật chuyên ngành có khai thác, sử dụng nước.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành đề nghị các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong quá trình lập, triển khai thực hiện các quy hoạch lĩnh vực có liên quan.
Đồng thời, Thứ trưởng tin tưởng rằng, sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ, ngành sẽ là cơ sở vững chắc để xây dựng các quy hoạch đảm bảo chất lượng, làm tiền đề cho việc khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước tiết kiệm, hiệu quả và bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra.
Theo ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là cột mốc quan trọng, đánh dấu quy hoạch ngành quốc gia lần đầu tiên được lập trong lĩnh vực tài nguyên nước, là định hướng điều hòa, phân bổ tài nguyên nước đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030).
Quy hoạch tài nguyên nước cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ như Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường… đặc biệt là Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Các vấn đề liên quan đến công tác quản lý, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng cho các mục đích nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản, thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn và các hoạt động sản xuất kinh doanh khác; vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia và các nội dung liên quan đến quản lý tổng hợp tài nguyên nước đã được định hướng tổng thể trong Quy hoạch tài nguyên nước; thể hiện đầy đủ, bao trùm các giải pháp công trình, phi công trình và được xem xét tổng thể trên cơ sở tài nguyên nước theo các lưu vực sông trên phạm vi toàn quốc, hiện trạng, nhu cầu sử dụng nước của các ngành có khai thác, sử dụng nước.
Quy hoạch tài nguyên nước là một trong những cơ sở cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; là định hướng tổng thể cấp quốc gia trong việc quản lý, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra.
Đồng thời, Quy hoạch định hướng tổng thể cho 6 vùng phát triển kinh tế - xã hội (trung du và miền núi phía Bắc; đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung; Tây Nguyên; Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long), 13 lưu vực sông lớn (Bằng Giang - Kỳ Cùng, Hồng - Thái Bình, Mã, Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn - Hà Thanh, Ba, Sê San, Sêrêpok, Đồng Nai, Cửu Long), nhóm lưu vực sông ven biển và một số đảo trên lãnh thổ Việt Nam triển khai thực hiện trong quá trình lập quy hoạch.
Quy hoạch tài nguyên nước hướng tới quản lý, sử dụng, phát triển bền vững, tổng hợp, thống nhất theo lưu vực sông, liên vùng, liên tỉnh. Mọi nhu cầu sử dụng nước cho phát triển kinh tế - xã hội phải phù hợp với chức năng và khả năng đáp ứng của nguồn nước, nhằm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, hợp lý, đa mục tiêu, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái thủy sinh, thích ứng với biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia. Từ đó, hướng tới bảo vệ số lượng và chất lượng, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ với duy trì, phát triển nguồn sinh thủy, nâng cao khả năng tích trữ nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; hợp tác, chia sẻ công bằng và hợp lý tài nguyên nước xuyên biên giới; phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra với phương châm phòng ngừa là chính, giảm thiểu tối đa tổn thất.
Ông Châu Trần Vĩnh cho biết thêm, trong quá trình lập quy hoạch, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương để đảm bảo đồng bộ giữa quy hoạch tài nguyên nước với các quy hoạch ngành quốc gia có liên quan. Thời gian qua, Bộ đã hợp tác, phối hợp với Ngân hàng Thế giới, Australia, Pháp, nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thông qua các cuộc họp kỹ thuật nhằm trao đổi về kinh nghiệm quốc tế trong quá trình xây dựng quy hoạch.
Tạp chí KTTV tổng hợp