Diễn biến Thủy văn từ tháng 10 đến nửa đầu tháng 11/2019

Đăng ngày: 02-10-2019 | Lượt xem: 634

Khu vực Bắc Bộ

Từ tháng 10 đến nửa đầu tháng 11, dòng chảy trên các sông suối khu vực phía Bắc, đặc biệt, dòng chảy đến các hồ chứa lớn trên lưu vực sông Hồng thiếu hụt so với TBNN từ 30-70%, thiếu hụt nhiều trên lưu vực sông Đà. Mực nước thấp nhất cùng kỳ trong chuỗi quan trắc xuất hiện liên tiếp ở hạ lưu sông Lô tại Tuyên Quang và Vụ Quang, hạ lưu sông Hồng tại Hà Nội.

Tình hình hồ chứa:

Hồ chứa thủy điện: Mực nước các hồ chứa thủy điện lớn như: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình thấp hơn rất nhiều so với năm 2018, thấp hơn mực nước dâng bình thường từ 5-16m, thấp nhất tại hồ Sơn La. So sánh với mực nước theo Quy trình vận hành liên hồ chứa trên sông Hồng, mực nước hồ Hòa Bình đang thấp hơn khoảng 4m, hồ Thác Bà thấp hơn khoảng 1,5m.

Hồ chứa thủy lợi: Dung tích trung bình các hồ thủy lợi khu vực Bắc Bộ phổ biến đạt từ 50-100% dung tích thiết kế (DTTK); nhiều hồ thủy lợi khu vực Điện Biên và Sơn La có dung tích thấp hơn các khu vực khác.

Khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ

Khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên:

Từ ngày 30/10-01/11, trên các sông từ Nam Quảng Bình đến Phú Yên và Kon Tum đã xuất hiện 01 đợt lũ với biên độ lũ lên ở thượng lưu các sông phổ biến từ 4,0-6,5m, hạ lưu từ 2,0-5,4m. Đỉnh lũ trên các sông phổ biến ở mức BĐ1-BĐ2, riêng sông Kiến Giang, sông Trà Khúc, sông Vệ (Quảng Ngãi) và thượng lưu sông ĐắkBla (KonTum) ở mức xấp xỉ BĐ3 và trên BĐ3.

Từ ngày 10-11/11, trên các sông từ Quảng Nam đến Khánh Hòa và khu vực Tây Nguyên đã xuất hiện 01 đợt lũ với biên độ lũ lên trên các sông phổ biến từ 2-4,5m. Đỉnh lũ trên các sông ở mức thấp, riêng sông Vệ (Quảng Ngãi), sông Kỳ Lộ (Phú Yên), sông Dinh Ninh Hòa (Khánh Hòa) ở trên mức BĐ2.

Tình hình hồ chứa 10 ngày đầu tháng 11:

Dung tích các hồ thủy lợi từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế đạt từ 53-95% DTTK; các hồ từ Đà Nẵng đến Bình Thuận đạt từ 50-85% DTTK; các hồ ở khu vực Tây Nguyên đạt từ 88-98%.

Mực nước các hồ chứa thủy điện vừa và lớn ở khu vựcTây Nguyên thấp hơn mực nước dâng bình thường (MNDBT) từ 0,3-3,8m; ở Trung Bộ phổ biến thấp hơn MNDBT từ 9,5-14m, một số hồ thấp hơn nhiều như Bình Điền (thấp hơn) 21m), A Vương (thấp hơn 31m).

Khu vực Nam Bộ:

Lũ đầu nguồn sông Cửu Long đạt đỉnh vào nửa cuối tháng 9, đỉnh lũ trên sông Tiền tại Tân Châu là 3,63m trên BĐ1: 0,13m (ngày 17/9) thấp hơn TBNN

0,4m, trên sông Hậu tại Châu Đốc là 3,16m trên BĐ1: 0,16m (ngày 28/9), thấp hơn TBNN 0,45m, sau xuống nhanh. Ở hạ nguồn sông Cửu Long, sông Sài Gòn chịu ảnh hưởng của một kỳ triều cường mạnh vào những ngày cuối tháng 9, mực nước tại trạm Mỹ Thuận, Mỹ Tho (sông Tiền), Cần Thơ (sông Hậu), Phú An (sông Sài Gòn) đã vượt mức lịch sử từ 0,02-0,06m.

Trong 10 ngày đầu tháng 11, mực nước sông Mê Công xuống dần, lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Công (tại trạm Kratie-Camphuchia) về đầu nguồn sông Cửu Long ở mức thấp hơn TBNN cùng kỳ khoảng 62% và thấp hơn cùng kỳ năm 2015 khoảng 35%; mực nước đầu nguồn sông Cửu Long ở mức thấp hơn TBNN từ 0,9-1,2m.

Tin: Phương Thanh - Vụ KHQT

  Ý kiến bạn đọc

Tin tức liên quan: