Khu vực Bắc Bộ
Trong tháng 8, trên thượng lưu hệ thống sông Hồng-Thái Bình đã xuất hiện 2-3 đợt lũ với biên độ lũ lên từ 2-5m. Lũ trên báo động (BĐ) 3 tại Hưng Thi (sông Bôi), lũ trên BĐ2 tại Yên Bái (sông Thao) và Lâm Sơn (sông Bùi), lũ trên BĐ1 tại Bến Đế (sôngHoàng Long), Lục Nam (sông Lục Nam) và Lạng Sơn (sông Kỳ Cùng), lũ xấp xỉ BĐ 1 tại hồ Hòa Bình (sông Đà).
Lũ quét và sạt lở đất đã xảy ra tại tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên và Bắc Kạn.
Dòng chảy trên các sông suối khu vực phía Bắc, đặc biệt, dòng chảy đến các hồ chứa lớn trên lưu vực sông Hồng thiếu hụt so với TBNN từ 30-60%. Mực nước thấp nhất cùng kỳ trong chuỗi quan trắc xuất hiện ở lưu sông Lô tại Tuyên Quang liên tiếp trong nhiều tháng, đặc biệt trong tháng 9, mực nước thấp nhất cùng kỳ xuất hiện tại nhiều nơi như Tuyên Quang, Vụ Quang (sông Lô) và Hà Nội (sông Hồng) và Phả Lại (sông Thái Bình).
Mực nước các hồ chứa lớn như Sơn La, Hòa Bình thấp hơn rất nhiều so với năm 2018, trong đó mực nước hồ Hòa Bình, thấp hơn cùng kỳ năm 2018 khoảng 6m. Tổng dung tích 05 hồ chứa lớn (Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang và Thác Bà) thấp hơn cùng kỳ so với năm 2018 khoảng 6,6 tỉ m3, thấp hơn dung tích thiết kế 7,3 tỉ m3.
Khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên
Từ ngày 2-6/9, trên các sông từ Thanh Hóa, Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế và Bắc Tây Nguyên đã xuất hiện 01 đợt lũ. Biên độ lũ lên ở thượng lưu sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố (Hà Tĩnh), sông Gianh, sông Kiến Giang (Quảng Bình), sông Thạch Hãn (Quảng Trị) phổ biến từ 5-9m; riêng biên độ lũ lên tại trạm Chu Lễ (sông Ngàn Sâu) và trạm Đồng Tâm (sông Gianh) từ 10,4-11,9m. Đỉnh lũ trên các sông nhỏ ở Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế và Kon Tum ở mức BĐ1 và trên BĐ1; đỉnh lũ thượng lưu sông Ngàn Sâu (Hà Tĩnh), sông Gianh (Quảng Bình) vượt BĐ3 từ 0,37-0,95m; đỉnh lũ sông Kiến Giang (Quảng Bình), sông Thạch Hãn (Quảng Trị) dưới BĐ3 từ 0,14-0,26m. Do mưa lũ kéo dài nhiều ngày đã gây ngập lụt sâu diện rộng tại các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị.
Từ nửa cuối tháng 9 đến nay (10/10), trên các sông ở Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên đã xuất hiện 1-2 đợt lũ nhỏ và dao động, đỉnh lũ phổ biến ở mức BĐ1 và trên BĐ1, riêng trên sông Cái Phan Rang (Ninh Thuận) tại Tân Mỹ 37,12m, dưới BĐ3 0,37m.
Hiện tại, lượng dòng chảy trung bình trên phần lớn các sông chính ở Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên phổ biến ở mức thấp hơn TBNN cùng kỳ từ 10-57%; các sông từ Nghệ An đến Ninh Thuận thấp hơn từ 65-90%.
Khu vực Nam Bộ
Từ cuối tháng 8, mực nước trung, hạ lưu sông Mê Công lên nhanh và đạt mức cao nhất vào nửa đầu tháng 9. Mực nước cao nhất tại trạm Pakse 13,75m (ngày 05/9), tại trạm Kratie 22,73m (ngày 09/9) đều ở trên mức báo động lũ, mực nước tại trạm Prekdam (trên sông Tonle Sap) đạt mức cao nhất là 7,97m (ngày 17/9), sau đó xuống nhanh.
Hiện tại (10/10), mực nước tại các trạm thượng lưu sông Mê Công biến đổi chậm và ở mức thấp hơn TBNN từ 1,5-5,0m, ở trung và hạ lưu đang ở mức thấp nhất trong chuỗi số liệu quan trắc. Mực nước trạm Kompong Luông (Biển Hồ) là 6,31m ở mức thấp hơn TBNN cùng kỳ 1,7m, cao hơn cùng kỳ năm 2015 là 1,08m.
Tổng lượng dòng chảy 04 tháng mùa lũ (từ tháng 6 đến tháng 9/2019), từ thượng nguồn sông Mê Công về đầu nguồn sông Cửu Long thiếu hụt so với TBNN từ 20-30%; tổng lượng 10 ngày đầu tháng 10/2019 thấp hơn TBNN từ 45-50%.
Từ cuối tháng 8, mực nước đầu nguồn sông Cửu Long lên dần và đạt mức cao nhất năm vào nửa cuối tháng 9. Đỉnh lũ trên sông Tiền tại Tân Châu là 3,63m, trên BĐ1: 0,13m (ngày 17/9), thấp hơn TBNN 0,4m; trên sông Hậu tại Châu Đốc là 3,16m, trên BĐ1: 0,16m (ngày 28/9), thấp hơn TBNN 0,45m.
Do lũ thượng nguồn về kết hợp với kỳ triều cường, mực nước hạ lưu sông Cửu Long lên nhanh và đạt mức cao nhất vào cuối tháng 9. Trên sông Tiền tại Mỹ Thuận 2,12m (ngày 30/9) trên BĐ3: 0,32m (vượt lịch sử năm 2018 là 0,05m), tại Mỹ Tho 1,87m (ngày 30/9) trên BĐ3: 0,27m (vượt mức lịch sử năm 2018 là 0,05m); trên sông Hậu tại Cần Thơ 2,25m (ngày 30/9) trên BĐ3: 0,35m (vượt mức lịch sử năm 2018 là 0,02m, tại Long Xuyên 2,68m (ngày 30/9) trên BĐ3: 0,18m; trên sông Sài Gòn tại Phú An 1,77m (ngày 30/9) trên BĐ3: 0,27m (vượt mức lịch sử năm 2017, 2018 là 0,06m).
Tình hình hồ chứa trong 10 ngày đầu tháng 10/2019
Hồ chứa thủy lợi: Dung tích trung bình các hồ thủy lợi từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế đạt từ 21-71% dung tích thiết kế (DTTK); các hồ từ Đà Nẵng đến Bình Thuận đạt từ 11-64% DTTK; các hồ ở khu vực Tây Nguyên đạt từ 81-96%.
Hồ thủy điện: Mực nước các hồ chứa thủy điện ở khu vực Tây Nguyên thấp hơn mực nước dâng bình thường từ 0,5-3,5m, ở Trung Bộ phổ biến ở mức thấp, một số hồ đã xuống mực nước chết như Vĩnh Sơn B, Trà Xom, Thuận Ninh,...
Bản đồ chuẩn dòng chảy (trái) và tỷ chuẩn dòng chảy (phải) tháng 7/2019 khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên
Hải văn
Hiện tượng triều cường cao xấp xỉ kỷ lục vào những ngày cuối tháng 9 và đầu tháng 10 gây ngập úng nghiêm trọng tại ven biển và trong đất liền các tỉnh Đông Nam Bộ là thông tin hải văn nổi bật trong giai đoạn này. Nguyên nhân gây triều cường cao kỷ lục ngoài thủy triều cao còn do tác động của đợt gió chướng tuy không mạnh nhưng xuất hiện sớm và kéo dài tại ven biển Đông Nam Bộ.
Bài: Thành Công