Những hạn chế và nguyên nhân việc thực hiện chính sách pháp luật về phòng chống thiên tai

Đăng ngày: 09-08-2019 | Lượt xem: 1146
Các nghiên cứu mới tập trung vào mảng nâng cao năng lực dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn. Các nghiên cứu phục vụ về điều tra cơ bản, quan trắc, thông tin dữ liệu còn hạn chế, đặc biệt là các nghiên cứu khoa học phục vụ công tác quản lý nhà nước lĩnh vực khí tượng thủy văn.

- Các nghiên cứu về dự báo khí tượng thủy văn vẫn chủ yếu khai thác, ứng dụng các mô hình của nước ngoài để nghiên cứu cải tiến cho phù hợp với điều kiện Việt Nam còn khó khăn do chưa có điều kiện nghiên cứu cơ chế vật lý trong các mô hình. Đến thời điểm hiện tại chưa có các mô hình dự báo chuyên dụng cho Việt Nam.

- Mặc dù chất lượng dự báo từ các mô hình toàn cầu được cải thiện hàng năm, tuy nhiên đối với chất lượng dự báo mưa còn hạn chế, đặc biệt trong bài toán cung cấp dự báo chi tiết định lượng tại các điểm trạm và trên các lưu vực sông trong bài toán dự báo thủy văn. Chỉ số kĩ năng đối với dự báo mưa định lượng của các mô hình khu vực khi hạ quy mô động lực từ các mô hình toàn cầu còn thấp (ví dụ đánh giá tại trạm quan trắc đối với biến dự báo mưa tích lũy ngày ở hạn 24h chỉ đạt khoảng 25-30% đối với các trường hợp mưa lớn xảy ra) và không có sự khác biệt nhiều đối với sản phẩm toàn cầu xuất phát từ hai nguyên nhân chính gồm năng lực tính toán trong giai đoạn 2010-2018 còn thấp (chưa đáp ứng được việc cung cấp sản phẩm phân giải cao dưới 10km trong nghiệp vụ) và khả năng đồng bộ hóa dữ liệu quan trắc cùng việc cập nhật đồng hóa các loại số liệu quan trắc của Việt Nam cho các mô hình khu vực còn hạn chế (cả về mặt làm chủ công nghệ tiền xử lý mô hình, công nghệ đồng hóa số liệu, các quan trắc chi tiết để kiểm nghiệm, hiệu chỉnh những cơ chế liên quan đến vật lý mây, mưa trong các hệ thống mô hình khu vực ứng dụng tại Việt Nam).

- Về công nghệ đồng hóa số liệu đã thực hiện thiết lập được các công nghệ đồng hóa 3 chiều, tuy nhiên kết quả thử nghiệm chưa thấy rõ được những hiệu quả mà đồng hóa số liệu mang lại. Nguyên nhân do sự hạn chế về năng lực, về quan trắc đã qua kiểm soát chất lượng và những hiểu biết/thử nghiệm chuyên sâu về vai trò của sai số mô hình trong việc truyền thông tin quan trắc trong bài toán đồng hóa chưa được thực hiện một cách triệt để, đây cũng là nguyên nhân hạn chế trong các bài toán dự báo định lượng mưa, các dự báo bất thủy tĩnh, mô hình phân giải cao.

- Nghiên cứu dự báo KTTV phục vụ hoạt động chuyên ngành trong sản xuất và phát triển của các ngành kinh tế quốc dân (như nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản, thuỷ lợi, thuỷ điện, giao thông đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không, công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, năng lượng than, dầu khí, an ninh quốc phòng, văn hoá du lịch,v.v….) còn hạn chế.

- Hạn chế về công tác quản lý: cơ chế quản lý tài chính và cấp phát kinh phí dẫn đến công tác nghiên cứu phục vụ về khí tượng thủy văn chậm so với xu thế phát triển chung và yêu cầu của công tác quản lý.

- Hạn chế về năng lực cán bộ và năng lực tính toán nhất là các Đài KTTV khu vực không đáp ứng được với một số công nghệ được chuyển giao.

- Cho đến thời điểm hiện tại nhiều phần mềm/công nghệ dự báo cần được nâng cấp cho phù hợp với sự phát triển công nghệ và phù hợp với điều kiện tự nhiên.

- Hiện nay, Tổng cục chưa có TCVN nào được công bố, mới công bố được một số ít các QCVN, tuy nhiên các QCVN đã được công bố còn nhiều nội dung quy định chưa đúng với yêu cầu của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn và đang tiếp tục được rà soát để sửa đổi bổ sung cho phù hợp.

Tin Thành Công - Vụ KHQT

  Ý kiến bạn đọc

Tin tức liên quan: